Thông tin chung
MÈO RI là Thú tên la tin là Felis chaus thuộc họ Mèo Felidae bộ Ăn thịt Carnivora
- Tên Việt Nam: MÈO RI
- Tên Latin: Felis chaus
- Họ: Mèo Felidae
- Bộ: Ăn thịt Carnivora
- Lớp (nhóm): Thú
Hình ảnh
Đặc điểm
Mèo có Bộ lông màu xám tro đến vàng nâu, phần bụng lông sáng hơn và dài hơn. Đặc điểm nổi bật của mèo ri là Bộ lông đơn giản, gần như đồng mầu hoặc chỉ có đốm mờ ở thân và có lông đen dài ở đỉnh tai. Nhưng có một số vệt trắng ở mặt và 2 vệt ở mặt trong chân trước; nhiều vệt đốm mờ ở phía ngoài của 4 chân. Mèo non có thể có một số dải đen ở thân. Đuôi ngắn không quá nửa dài thân, thường xấp xỉ 1/ 3 ; có 4 – 5 vòng đen ở nửa cuối đuôi.
Đặc tính
Ở Việt Nam loài này chưa được nghiên cứu. Theo Kanchanasakha et al. (1998), Mèo ri sống ở các trảng cỏ, trảng cây bụi và các bờ lau lách dọc sông và đầm lầy. Mèo hoạt động cả ban ngày và đêm, thường là sáng sớm và chiều tối. Thức ăn bao gồm các loài thú gặm nhấm, chim, bò sát, ếch nhái, côn trùng và cá. Mỗi lứa đẻ thường 3 con, đôi khi tới 5 con. Mèo con mở mắt sau 11-15 ngày tuổi.
Phân bố
Trong nước: Nơi thu mẫu: Tây Ninh (1932) Vườn quốc gia Lò Gò – Sa Mác, Gia Lai (K’Bang); Chưa xác định được đầy đủ vùng phân bố. Thế giới: Ấn Độ, Pakixtan, Xri Lanka, Tây Nam Trung Quốc, Thái Lan.
Giá trị
Góp phần điều hoà số lượng các vật mồi, giúp cân bằng sinh thái. Có thể nuôi làm cảnh ở các vườn thú để nghiên cứu sinh thái học.
Tình trạng
Ở Việt Nam loài này rất hiếm gặp. Cho đến nay mới thu được một mẫu da 1 (con non) (mẫu số 1929, ngày 10/7/1978) tại vùng Kon Hà Nừng thuộc huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai.
Phân hạng
DD
Biện pháp bảo vệ
Đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và Nhóm IB Nghị Định Nghị định 32/2006/NĐ-CPCần tiến hành điều tra xác định hiện trạng trong thiên nhiên để có biện pháp bảo vệ thích hợp.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 31.