Thông tin chung
CÁ MĂNG GIẢ là Cá tên la tin là Luciocyprinus langsoni thuộc họ Cá chép Cyprinidae bộ Cá chép Cypriniformes
- Tên Việt Nam: CÁ MĂNG GIẢ
- Tên Latin: Luciocyprinus langsoni
- Họ: Cá chép Cyprinidae
- Bộ: Cá chép Cypriniformes
- Lớp (nhóm): Cá
Hình ảnh
Đặc điểm
Thân dài, có dạng hình ống tròn, phía sau dẹp bên. Đầu dài mõm hơi nhọn. Miệng ở mút mõm, hướng trước rất rộng. Hàm trên dài hơn hàm dưới một ít. Hàm trên có lỗ khuyết nhỏ để khớp với chỗ đột của hàm dưới. Mắt lớn. Vây lưng có khởi điểm trước khởi điểm vây bụng một ít, tia vây lưng không cứng và trơn. Vây ngực và vây bụng ngắn chưa tới gốc vây sau nó. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Hậu môn ở ngay trước vây hậu môn. Vẩy nhỏ và nhiều. Đường bên hoàn toàn, nằm ở giữa thân. Thân màu xám, gần đuôi có một sọc đen đậm.
Đặc tính
Cá Măng giả thuộc loài cá dữ. Thức ăn chính là động vật không xương sống ở dưới nước. Cá có kích thước lớn, cỡ khai thác thường là 1 – 2kg, có con tới 10kg. Cá thành thục sinh dục sau 3 năm tuổi. Mùa sinh sản vào tháng 3 – 4. Bãi cá đẻ là nơi nước chảy xiết ở ven sông Kỳ Cùng.
Phân bố
Trong nước: Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng). Thế giới: Trung Quốc (Quế Châu – Quảng Tây và Nậm Pàn – Vân Nam).
Giá trị
Cá măng giả là loài phân bố hẹp ở sông Kỳ Cùng, tỉnh Lạng Sơn. Cá có kích thước lớn, thịt thơm ngon, thuộc loài quý hiếm, ít gặp.
Tình trạng
Loài cá này được Vaillant mô tả năm 1904 ở sông Kỳ Cùng, Lạng Sơn và được Mai Đình Yên mô tả lại năm 1978. Từ đó đến nay không có công trình này nghiên cứu thêm. Khoảng 10 năm trở lại đây, không còn thấy Cá măng ở sông Kỳ Cùng thuộc vùng thị xã Lạng Sơn do đánh bắt quá mức và việc thải chất độc của mỏ Na Dương xuống sông. Tuy nhiên có một số thông tin cho biết ở khúc sông Kỳ Cùng thuộc vùng Na Sầm, Đình Đô, thị trấn Thất Khê, Lạng Sơn vẫn còn loài cá này.
Phân hạng
CR A1c,d,e B1+2,b,c,d
Biện pháp bảo vệ
Cá đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cá cần được bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chưa có biện pháp bảo vệ và phục hồi ở các khu vực cư trú quan trọng của loài. Cần cấm đánh bắt loài cá này trong 5 năm liên tục, chống ô nhiễm của nguồn nước thải khu mỏ Na Dương. Cần nghiên cứu sinh học của loài cá này kỹ hơn, khoanh vùng các bãi đẻ, vùng cá con sinh sống, các vùng cần thiết bảo vệ làm cơ sở cho việc xây dựng quy chế bảo vệ và sử dụng hợp lý. Cần sớm nghiên cứu tạo nguồn cá giống bổ sung nguồn lợi cá này ở tự nhiên.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 31.