Thông tin chung
CÁ NHÁM VOI là Cá tên la tin là Rhincodon typus thuộc họ Cá nhám Rhincodontidae bộ Cá nhám râu Orectolobiformes
- Tên Việt Nam: CÁ NHÁM VOI
- Tên Latin: Rhincodon typus
- Họ: Cá nhám Rhincodontidae
- Bộ: Cá nhám râu Orectolobiformes
- Lớp (nhóm): Cá
Hình ảnh
Đặc điểm
Thân hình rất lớn, kích thước lớn nhất dài tới 20m, nặng 14 tấn. Bên lườn có hai gờ da chạy dọc từ vai đến bắp đuôi. Khe mang rất rộng. Lược mang nhiều và phân nhánh ken vào nhau như mạng lưới. Lưng và hông màu nâu đen hoặc xám hồng, có nhiều chấm trắng và vàng, phân bố ở đầu mau hơn. Bên thân đôi khi có một số vân ngang màu trắng hoặc vàng phân bố từ đầu đến đuôi.
Đặc tính
Cá nhám voi đẻ trứng, hiện chưa biết mùa đẻ của chúng. Người ta đã lấy được một trứng trong Vịnh Mehico ở độ sâu 56m cách bờ 130 hải lý, trứng dài 670mm, đường kính 400mm có bào thai cuộn bên trong lớp vỏ sừng (Rass, 1971). Mẫu cá bắt được ở Đồ Sơn (Hải Phòng) ngày 7/5/1977 dài 6,85m nặng khoảng 2700kg mang buồng trứng nặng 0,5kg với khoảng 4200 trứng non có đường kính 1,4 – 6.5mm. Thức ăn là động vật nổi, mực và cá nhỏ. Phương thức bắt mồi là cá bơi lội, miệng há rộng, nước qua miệng ra khe mang, mồi được mạng lược mang giữ lại. Cá sống ở tầng nước mặt các đại dương. Vào mùa hè chúng thường vào vùng biển nông sinh sản và kiếm ăn.
Phân bố
Trong nước: Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, vịnh Thái Lan. Thế giới: Các vùng biển nhiệt đới, nước ấm đại dương và ven bờ Thái Bình dương, Ấn Độ dương và Đại Tây Dương, giới hạn phía Bắc tới vĩ độ 42o , phía nam tới vĩ độ 33o 55 (Nam Phi).
Giá trị
Cá nhám voi là loài cá có kích thước lớn nhất trong lớp cá hiện sống, có giá trị nghiên cứu khoa học nhằm tìm hiểu chu trình di cư của chúng trên các đại dương và thức ăn của chúng. Có thể bắt một vài cá thể nhỏ để nuôi ở các công viên nước mặn phục vụ du lịch.
Tình trạng
Trên Thế giới mới biết có khoảng 100 con được nghiên cứu. ở biển Việt Nam, từ năm 1977 – 1987 ngư dân đã đánh bắt được 3 con, đến năm 1991 (sau 20 năm) mới đánh bắt được 1 con. Rõ ràng tần xuất bắt gặp giảm tới trên 50% trong khoảng 20 năm. Dự tính số lượng quần thể trong biển Việt Nam có dưới 250 cá thể trưởng thành và sẽ ngày càng giảm do cường độ đánh bắt tăng mạnh như hiện nay.
Phân hạng
EN A1a,d D.
Biện pháp bảo vệ
Đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam. Cần đưa loài này vào danh sách cấm đánh bắt trong ngành thuỷ sản.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 31.