Thông tin chung
ME là Cây gỗ lớn tên la tin là Tamarindus indica thuộc họ Đậu Fabaceae bộ Đậu Fabales
- Tên Việt Nam: ME
- Tên Latin: Tamarindus indica
- Họ: Đậu Fabaceae
- Bộ: Đậu Fabales
- Lớp (nhóm): Cây gỗ lớn
Hình ảnh
Phân bố
Cây có nguồn gốc Trung phi đã được trồng Việt Nam: Lào, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia..
Việt Nam gặp ở Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Thái, Lai Châu, Sơn La, Hà Tây, Hoà Bình, Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh phía nam, mọc nhiều ven đường đi, quanh làng bản.
Đặc điểm
Cây thường xanh, cao 20 – 15m, đường kính 60 – 100cm, thân thẳng không tròn, hơi vặn xoắn, nhiều cành tán lớn. Vỏ thân màu xám nhiều móc đen như muội, có đường ngăn dọc và ngang rộng. Thịt vỏ dày 1,2cm, màu trắng xanh, chát. Cành non mềm, chúc xuống, có lông và vảy dải dác; lá kép lông chim chẵn, mọc cách, dài 8 – 10cm, cuống chung dài 20cm, mềm, nhỏ, nhẵn, 10 – 20 đôi lá nhỏ hình bầu dục, dài 20mm, rộng 7mm, nhẵn, có 5 – 6 đôi gân bên mờ. Lá kèm hình sợi, sớm rụng. Cụm hoa chùm đơn ở đầu cành hay kẽ lá, dài 5 – 10cm, lá bắc sớm rụng, nụ hoa dài 2mm, hoa nở màu vàng. Cánh đài 5 hợp thành hình ống, nhẵn, 5 thùy ở đỉnh. Cánh tràng 3 lớn. 8 nhị dính thành bẹ ở dưới. Bầu có cuống nhẵn, 10 noãn; quả đậu dẹt hình tdễ bị ép, thẳng hoặc hơi cong, dài 7 – 12cm, rộng Việt Nam: cây mọc, 8 – 1,5cm, dày 0,3 – 0,7cm, 3 – 6 đốt, mỗi đốt một hạt. Vỏ quả màu xanh, phủ lông mịn, sau nhẵn, thịt quả lúc non cứng, màu xanh lúc gìa màu nâu đen, vị chua ngọt. Hạt hình trứng màu đen, dài 1,5cm, rộng 1cm.
Đặc tính
Cây ưa sang, ưa nhiều kiểu đất khác nhau nên thường được trồng ở hầu khắp nước ta. Tái sinh hạt tốt, tái sinh chồi kém
Công dụng
Gỗ cứng, không mịn, có thể đóng đồ đạc bàn ghế thông thường. Quả Me có vị chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải nắng, giúp tiêu hoá, lợi trung tiện và nhuận tràng. Ở Trung Quốc, quả Me được xem như có tác dụng dưỡng can minh mục, tiêu thực hoá tích, chỉ khát thoái nhiệt, tán bì, sát trùng. Hạt Me có tác dụng tẩy giun
Tài liệu tham khảo
Cây gỗ kinh tế – Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh – trang 287.