Thông tin chung
TUẾ SƠN TRÀ là Cây thuốc tên la tin là Cycas inermis thuộc họ Tuế Cycadaceae bộ Tuế Cycadales
- Tên Việt Nam: TUẾ SƠN TRÀ
- Tên Latin: Cycas inermis
- Họ: Tuế Cycadaceae
- Bộ: Tuế Cycadales
- Lớp (nhóm): Cây thuốc
Hình ảnh
Phân bố
Trong nước: Thừa Thiên – Huế (Lăng Cô: sườn bắc đèo Hải Vân), Đà Nẵng (bán đảo Sơn Trà), Phú Yên (đèo Cù Mông), Khánh Hoà (Cam Ranh) và Đồng Nai (Vườn quốc gia Cát Tiên).
Đặc điểm
Thân hoá gỗ không phân cành, cao 1 – 3 (4) m, đường kính 25 cm, vỏ nhẵn, đỉnh có nhiều lông mềm màu nâu đỏ, mang 6 – 35 lá mọc thành vài vòng. Lá vảy (cataphylls) hình dải, dài 40 – 50 mm, có lông. Lá màu xanh sẫm, bóng, dài 2,2 – 3 m, mang 130 – 220 lá chét giả (pinnae),mọc đối nhau và đính với trục lá (rachis) tạo thành góc 180°, có lông trắng, tận cùng của trục lá mang 2 lá chét giả; cuống lá dài 65 – 80 cm, nhẵn, có gai nhọn phân phối từ 70 tới 100% chiều dài cuống, lá chét giả ở gốc trục không tiêu giảm thành gai. Các lá chét giả ở phần giữa trục lá thường dài 29 – 35 cm, rộng 1,4 – 1,8 cm, đính vào trục với góc 60 – 80°, men theo trục 5 – 7 mm, gốc rộng 3 – 4,5 mm; lá chét mọc cách nhau 18 – 22 mm, phẳng, mép, hơi uốn cong xuống mặt dưới, nhọn đầu, gân nổi rất rõ. Nón đực hình trứng thuôn, dựng đứng, dài 23 – 30 cm, đường kính 8 cm. Vẩy nhị cứng không dày ở lưng, đỉnh có mũi nhọn cong, rất sắc, nhô cao 10 mm. Vảy noãn dài 20 cm, có lông mềm màu xám, mỗi vảy mang 4 noãn nhẵn; phiến vảy hình mác, dài 50 – 70 mm, rộng 30 – 70 mm; mép phiến vảy xẻ sâu đều đặn thành 18 – 26 thuỳ nhọn bên rất sắc, dài 4–5 mm, rộng 1 – 1,5 mm, thuỳ nhọn đỉnh dài 20–25 mm, rộng 3 mm ở gốc . Hạt hình bầu dục, dài 50 – 60 mm, rộng 38 – 50 mm; vỏ hạt chín màu vàng cam, nhẵn, dày 5 mm, có sơ.
Đặc tính
Nón xuất hiện tháng 4 – 5, khả năng tạo hạt tốt, hạt chín tháng 12 – 2 (năm sau). Tái sinh từ hạt và nảy chồi tốt. Vốn là cây trung sinh ưa ẩm, mọc rải rác dưới tán rừng rậm cây lá rộng, thường xanh, mưa mùa ẩm trên đất thấp cây lá rộng, nhưng có thể chịu hạn và chịu sáng, mọc dưới tán rừng nửa rụng lá Bằng lăng (Lagerstroemia calyculata) và trảng cây bụi rậm thứ sinh phục hồi sau nương rẫy, phát triển chủ yếu trên đất sét thoát nước, là sản phẩm phong hoá của đá phiến sét hay bazan, ở độ cao từ ven suối khoảng 100 m đến sườn đồi núi cao 600 – 800 m.
Công dụng
Loài đặc hữu của Việt Nam. Cây có dáng đẹp, trồng làm cảnh.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – trang 224.