Thông tin chung
CÁ ANH VŨ là Cá tên la tin là Semilabeo obscurus thuộc họ Cá chép Cyprinidae bộ Cá chép Cypriniformes
- Tên Việt Nam: CÁ ANH VŨ
- Tên Latin: Semilabeo obscurus
- Họ: Cá chép Cyprinidae
- Bộ: Cá chép Cypriniformes
- Lớp (nhóm): Cá
Hình ảnh
Đặc điểm
Cá cỡ trung bình, thân dài, hơi dày, dẹp bên. Đầu vừa phải. Mõm tròn tày, nhô trước. Miệng dưới. Môi trên và da mõm liền nhau, trên có nhiều mấu nhô chất thịt xếp hàng thành dải rộng. Môi dưới rất dày cũng chứa các mấu nhô chất thịt tạo thành dải rộng, hướng về phía cằm thu gọn thành hình tam giác. Có 2 đôi râu nhỏ. Mắt vừa phải. Khoảng cách 2 mắt rộng. Vây lưng có khởi điểm trước khởi điểm vây bụng, không có tia gai cứng, viền sau lõm sâu. Hậu môn ở giữa vây bụng và vây hậu môn. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Vảy trên thân vừa phải, phần trước vây ngực nhỏ và vùi dưới da. Đường bên hoàn toàn, nằm giữa thân. Thân màu đen sáng, bụng trắng sữa, giữa các hàng vảy trên thân có các sọc dọc không rõ ràng. Các vây màu xám.
Đặc tính
Cá anh vũ thích sống ở nơi nước chảy, trong, đáy có nhiều sỏi đá ở các khe suối hoặc sông ngòi miền núi. Cá có kích thước trung bình, lớn nhất đạt tới 4 – 5kg, thường khai thác được cỡ 0,3 – 1,5kg. Tuổi cá khai thác trong nhóm 1 – 4 tuổi, chủ yếu là nhóm 1 – 2 tuổi. Cá lớn chậm: 1 tuổi dài 31 – 37cm, 2 tuổi dài 40 – 52,5cm, 3 tuổi dài 46,5 – 60cm, 4 tuổi dài 67,5cm. Viền môi của cá có nhiều mấu nhỏ chất sừng để cạo thức ăn bám trên nền đáy hoặc đá. Thức ăn chủ yếu là thực vật bám trên đá và các loại tảo như tảo Lục, tảo Khuê. Cá phát dục ở 2 năm tuổi. Sức sinh sản của cá cao. Cá cái dài 40 – 50cm, nặng 1500 – 1700g có sức sinh sản tuyệt đối là 30.00 – 41.000 trứng, trứng có đường 7,7 – 10,9 mm. Mùa cá đẻ từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau (Nguyến Duy Nhất, 1962; Hoàng Đức Đạt, 1963), tháng 2 – 5 (Bộ Thuỷ sản, 1996) và vào tháng 8 – 9 khi nước bắt đầu trong (Phạm Báu và cộng sự, 1999). Bãi đẻ của cá ở đáy sông, nơi có nhiều đá hoặc hang hốc và có mức nước thay đổi từ 0,5 – 2m.
Phân bố
Trong nước: Các sông lớn ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình (sông Đà), Lào Cai, Yên Bái (sông Thao, sông Chảy), Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ (sông Lô – Gâm), Cao Bằng, Lạng Sơn (sông Kỳ Cùng), Thái Nguyên (sông Cầu), Thanh Hoá (sông Mã) và Nghệ An (sông Lam).
Giá trị
Cá anh vũ là loài quý hiếm, trước đây được dùng để “tiến vua”. Thịt cá thơm ngon được chế biến thành các món ăn đặc sản. Một số đồng bào dân tộc ở Nà Hang (Tuyên Quang) đã vớt Cá giống anh vũ ở sông suối về nuôi bước đầu có kết quả.
Tình trạng
Cá anh vũ bị săn lùng quá mức phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Sản lượng cá giảm mạnh ở các sông chính của các tỉnh miền núi phía Bắc. Qua 5 điểm khảo sát ở các triền sông vùng Đông Bắc (9/2001) cho thấy Cá anh vũ vẫn còn; đặc biệt là sông Gâm còn khá nhiều. Số lượng Cá anh vũ ở Nà Hang (Tuyên Quang) và Việt Trì (Phú Thọ) theo ngư dân đã giảm chỉ còn 30% so với những năm 1960 – 1970. Sản lượng đánh bắt Cá anh vũ ở Nà Hang thu khoảng từ 500 – 600kg/vụ. Kế hoạch Nhà nước những năm tới sẽ xây dựng đập chắn ngang sông Gâm, tạo thành hồ chứa lớn, chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn tới vùng dự trữ Cá anh vũ.
Phân hạng
VU A1c,d B2a,b.
Biện pháp bảo vệ
Đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc V và danh sách các loài cần được bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Đã có quy chế khai thác Cá anh vũ và gần đây được đưa vào diện cấm đánh bắt hoàn toàn. Tuy nhiên cá vẫn bị đánh bắt nhiều và các phương tiện thông tin đại chúng vẫn quảng cáo cho việc ăn cá này. Cần điều tra kỹ loài cá này để có quy chế bảo vệ và khai thác hợp lý. Cần cấm khai thác ở các vùng trọng điểm và bãi đẻ quan trọng.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 31.