Thông tin chung
MÈO GẤM là Thú tên la tin là Pardofelis marmorata thuộc họ Mèo Felidae bộ Ăn thịt Carnivora
- Tên Việt Nam: MÈO GẤM
- Tên Latin: Pardofelis marmorata
- Họ: Mèo Felidae
- Bộ: Ăn thịt Carnivora
- Lớp (nhóm): Thú
Hình ảnh
Đặc điểm
Loài thú nhỏ trong họ nhà Mèo Felidae. Bộ lông mịn xốp, thay đổi lớn về hoa văn. Nền lông mầu xám xanh hay nâu son; có nhiều vệt đen ở đầu, cổ và lưng; có hoa văn gần kiểu hoa văn của báo gấm nhưng nhỏ hơn, bị đứt quãng và mờ lẫn trong nền lông lưng. Có 2 dải lông đen chạy từ cổ đến gốc đuôi, tách biệt với các vân ở lưng; nhiều đốm nhỏ ở đùi. Đuôi dài xấp xỉ dài thân và nhiều vệt đen nhỏ không thành vòng đuôi rõ như báo gấm.
Đặc tính
Mèo gấm còn ít được nghiên cứu. Thức ăn gồm các loài chim, gậm nhấm nhỏ, rắn, bò sát, ếch nhái, côn trùng. Mèo sống và hoạt động ở vùng rừng núi cây gỗ lớn và rừng tái sinh và kể cả trên núi đất và núi đá, hoạt động về đêm.
Phân bố
Trong nước: Nơi thu mẫu: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Bắc Kạn, Phú Thọ, Đắk Lak, Lâm Đồng. Mèo gấm phân bố rộng ở các vùng rừng núi trong toàn quốc. Thế giới: Nêpan, Ấn Độ, Mianma, Malaixia, Indonesia, Thái Lan.
Giá trị
Thú quí, hiếm có giá trị nghiên cứu khoa học và góp phần điều hoà số lượng cá thể các quần thể con mồi.
Tình trạng
Mèo gấm trước đây khá phổ biến trong các khu rừng thường xanh và bán thường xanh. Do bị săn bắt nhiều và sự thoái hoá rừng trữ lượng của mèo gấm bị giảm sút nghiêm trọng.
Phân hạng
VU A1c,d C1.
Biện pháp bảo vệ
Đã được đưa và Sách đỏ Việt Nam và Nhóm IB Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Cần kiểm soát chặt chẽ việc săn bắt và buôn bán động vật rừng, bảo vệ tốt nguồn con mồi trong các khu rừng có mèo gấm sinh sống.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 31.