Thông tin chung
MÍT là Cây gỗ lớn tên la tin là Artocarpus heterophyllus thuộc họ Dâu tằm Moraceae bộ Gai Urticales
- Tên Việt Nam: MÍT
- Tên Latin: Artocarpus heterophyllus
- Họ: Dâu tằm Moraceae
- Bộ: Gai Urticales
- Lớp (nhóm): Cây gỗ lớn
Hình ảnh
Phân bố
Cây trồng ở khắp các tỉnh từ Bắc vào Nam để lấy quả và lấy gỗ.
Đặc điểm
Cây gỗ cao 10 – 15m, vỏ dày màu xám sẫm. Cành non có lông và vết vòng lá kèm. Lá đơn, mọc cách, phiến lá dày hình trái xoan, rộng hay trứng ngược, dài 7 – 15cm, đầu có mũi tù ngắn, mép lá nguyên và ở những cây non thường chia 3 thùy, mặt trên màu lục đậm bóng. Cuống lá dài 1 – 2,5cm. Lá kèm lớn, dính thành mo ôm cành, sớm rụng. Cụm hoa đực dài, gồm nhiều hoa, có lông tơ mềm, lá bắc hình khiên, bao hoa hình ống gồm 2 cánh dính nhau ở đỉnh. Cụm hoa cái hình bầu dục ở ngay trên thân hoặc các cành già, quả phức rất lớn, gồm nhiều quả thịt mềm, vỏ ngoài có nhiều gai nhọn.
Đặc tính
Cây ưa đất sâu ẩm quanh nhà, đất núi đồi khô và cả đất bạc màu. Cây thuộc loài cây ưa sáng mọc chậm. Tái sinh chồi kém hơn tái sinh hạt. Hoa vào tháng 3, có quả rộ tháng 6 – 7
Công dụng
Gỗ qúy, màu vàng da cam sẫm hơi hồng nâu. Mặt gỗ mịn trung bình, mật độ mạch trong gỗ sớm cao hơn trong gỗ muộn. Nhu mô quanh mạch dễ trông thấy, không có nhu mô quanh tuỷ. Gỗ nhẹ, tỷ trọng 0,681, không bị mối mọt, dễ làm và bền, dùng đóng đồ mộc và tạc tượng, làm đồ mỹ nghệ và làm nhà. Cây mít có nhiều công dụng. Gỗ vàng, mịn mặt, dùng trong xây dựng, làm cột nhà, đóng hòm, bàn ghế, mâm, để khắc dấu, tiện và tạc tượng… Cây mít cũng được trồng là cây nọc cho hồ tiêu leo. Quả xanh dùng ăn như rau, hoặc luộc, hoặc xào. Quả chín cho múi và hạt ăn được, nhưng hạt mít ngoài tinh bột, protid, lipid, muối khoáng, còn có chất men ức chế men tiêu hóa đường ruột nên ăn nhiều dễ bị đầy bụng. Hạt mít được dùng trị ghẻ lở, lâm ba kết hạch, sản hậu ít sữa. Hạt mít nướng hay luộc ăn thơm ngon và bùi. Múi mít dùng chữa sốt rét rừng và giải say rượu. Lá mít được dùng làm thuốc lợi sữa, chữa ăn uống không tiêu, ỉa chảy và trị cao huyết áp. Ở Ấn Độ người ta dùng chữa các bệnh ngoài da và trị rắn cắn. Rễ cây sắc nước uống trị ỉa chảy và cùng với vỏ trị các loại viêm gây sốt. Dịch nhựa cây thường được dùng đắp rút mủ mụn nhọt, còn dùng trị bệnh giang mai và trừ giun. Ở Ấn Độ, người ta dùng đắp lên hạch sưng và áp xe để kích thích sự mưng mủ.
Tài liệu tham khảo
Cây gỗ kinh tế – Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh – trang 525.