Thông tin chung
Ô RÔ NƯỚC là Cây ngập mặn tên la tin là Acanthus ilicifolius thuộc họ Ô rô Acanthaceae bộ Hoa mõm sói Scrophulariales
- Tên Việt Nam: Ô RÔ NƯỚC
- Tên Latin: Acanthus ilicifolius
- Họ: Ô rô Acanthaceae
- Bộ: Hoa mõm sói Scrophulariales
- Lớp (nhóm): Cây ngập mặn
Hình ảnh
Phân bố
Loài của Ôxtraylia, Ấn Độ, Trung Quốc (đảo Hải Nam), Xri Lanca, Thái Lan và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ven biển, có khi cả trong đất liền, ven sông suối ở Hoà Bình, Ninh Bình và hầu khắp các tỉnh miền Tây nam bộ.
Đặc điểm
Cây thảo cao 0,5 – 1,5m, thân tròn màu xanh, có nhiều rãnh dọc. Lá mọc đối, sát thân, hầu như không cuống, phiến, mép lượn sóng, có răng cưa không đều và có gai nhọn. Hoa màu xanh lam hay trắng, xếp 4 dãy thành bông. Quả nang dạng bầu dục, màu nâu bóng, có 4 hạt dẹp, có vỏ trắng trắng và xốp.
Đặc tính
Cây mọc ở vùng ven sông, vùng biển nước lợ; gốc rễ ngập trong nước. Chịu được mặn và phèn chua ở các kênh rạch miền Tây nam bộ Mùa hoa quả tháng 10 – 11.
Công dụng
Toàn cây thường được dùng làm thuốc hưng phấn, trị đau lưng nhức mỏi, tê bại, ho đườm, hen suyễn. Rễ và ;lá còn được dùng trị thuỷ thũng, đái buốt, đái dắt và chữa thấp khớp. Ở Cà Mau, nhân dân dùng đọt cây Ô rô nấu nước với quả hay lá cây Quao để tri đau gan. Lá và rễ cũng được dùng để ăn trầu, đánh cho nước trong và cũng dùng chữa bệnh đường ruột. Ở Trung Quốc, rễ cây được dùng trị viêm gan, gan lách sưng to, bệnh hạch bạch huyết, hen suyễn, đau dạ dày và u ác tính.
Tài liệu tham khảo
Cây cỏ có ích ở Việt Nam – Võ văn Chi, Trần Hợp – trang 205