Thông tin chung
SA MỘC DẦU là Cây gỗ lớn tên la tin là Cunninghamia konishii thuộc họ Bụt mọc Taxodiaceae bộ Hoàng đàn Cupressales
- Tên Việt Nam: SA MỘC DẦU
- Tên Latin: Cunninghamia konishii
- Họ: Bụt mọc Taxodiaceae
- Bộ: Hoàng đàn Cupressales
- Lớp (nhóm): Cây gỗ lớn
Hình ảnh
Phân bố
Trong nước: Nghệ An (Quế Phong: Hạch Dịch, Mường Đán, núi Pù Hoạt; Quì Hợp: Pù Huống, núi Pha Ca Tủn; Con Cuông: Pù Mát), theo dự đoán chắc chắn còn gặp ở một số vùng núi khác của tây Thanh Hoá và tây bắc Nghệ An. Thế giới: Có khu phân bố gián đoạn: Đài Loan, Trung Quốc (Phúc Kiến) và Lào (Hủa Phăn) và được mở rộng từ Hủa Phăn của Bắc Lào sang đến phần tả ngạn sông Cả của Việt Nam.
Đặc điểm
Cây gỗ to, thường xanh, có thể cao đến 35 – 40 m hay hơn nữa với đường kính thân đến hơn 1,5 m, tán lá hình tháp. Lá mọc xoắn ốc rất xít nhau, gốc vặn, do đó ít nhiều xếp thành 2 dãy, hình dải, dài 1,1 – 1,9 cm, rộng 0,20 – 0,25 cm, thót ngắn thành mũi tù và không cứng, mép hơi răng cưa, mặt dưới có hai dải lỗ khí. Cây cùng gốc. Nón đực mọc thành cụm ở nách lá gần đầu cành. Nón cái đơn độc hoặc cụm 2 – 3, khi trưởng thành dài 2,4 – 2,8 cm, rộng 2,0 – 2,6 cm. Vẩy nón cái hình tam giác rộng, có mũi nhọn ở đầu, có răng cưa ở hai mép và hai tai tròn ở giữa, mang 3 hạt trong mỗi vẩy. Hạt có cánh bên khá rộng, dài 5 mm, rộng 4 mm.
Đặc tính
Nón xuất hiện tháng 9, hạt trưởng thành vào tháng 3 – 5 năm sau. Cây tái sinh bằng hạt bình thường với nhiều cây có tuổi rất khác nhau, kể từ cây mạ trở lên. Mọc cùng với Pơ mu (Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry & Thomas) tạo thành tầng nhô trong rừng trên sườn dông, trong khi tầng ưu thế sinh thái gồm các loài cây lá rộng thường xanh chủ yếu thuộc họ Dẻ (Fagaceae), ở độ cao 1200 – 1600 m.
Công dụng
Nguồn gen quí và độc đáo của Việt Nam. Loài thuộc yếu tố Đông á. Gỗ nhẹ, thớ mịn và có mùi thơm, dễ thao tác và bền, có giá trị sử dụng lớn để đóng đồ dùng cho gia đình, làm nhà, làm cột điện, đóng thuyền v.v. Từ vỏ cây tiết ra nhiều nhựa dầu dùng làm thuốc, để gắn hoặc có một số công dụng riêng.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 – phần thực vật – trang 510.