Thông tin chung
TUẾ BA LAN SA là Cây thuốc tên la tin là Cycas balansae thuộc họ Tuế Cycadaceae bộ Tuế Cycadales
- Tên Việt Nam: TUẾ BA LAN SA
- Tên Latin: Cycas balansae
- Họ: Tuế Cycadaceae
- Bộ: Tuế Cycadales
- Lớp (nhóm): Cây thuốc
Hình ảnh
Phân bố
Trong nước: Lạng Sơn (Bắc Sơn), Tuyên Quang (Sơn Dương), Thái Nguyên (Đại Từ), Quảng Ninh (Đông Triều, Hoành Bồ: Tân Dân, Đình Lập, Cẩm Phả, Tiên Yên, Móng Cái), Bắc Giang, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Chinê), Nghệ An (Nghĩa Đàn, Diễn Châu), Hà Tĩnh (Hương Sơn), Quảng Trị (Đa Krông). Thế giới: Nam Trung Quốc (Vân Nam và Quảng Tây), Bắc Thái Lan, Lào.
Đặc điểm
Thân hoá gỗ, chủ yếu mọc ngầm dưới đất, phần trên mặt đất khoảng 0,5 m, đường kính 10 – 20 cm, không phân cành, vỏ gồ ghề, màu xám đen, mang nhiều vòng lá ở đỉnh thân, mỗi vòng có 4 – 9 lá. Lá vảy (cataphylls) dài 6–7 cm, xốp mềm, có lông rải rác. Lá màu xanh thẫm, dài 120 – 240 cm với từ 90 tới 160 lá chét giả (pinnae), trong đó có một đôi ở tận cùng trục lá (rachis); cuống lá dài 40 – 160 cm, có lông, mang 25 – 43 đôi gai nhọn nhỏ ở từ 90 tới 100% chiều dài cuống. Các lá chét giả ở phần giữa trục thường dài 22 – 30 cm, rộng 1 – 1,5 cm, chiều dài phần đính vào trục lá 1,1 – 2,1 cm với góc 75 – 85º; mép lá trơn và uốn cong xuống mặt dưới hoặc lượn sóng, gốc men theo trục 5 – 8 mm, nhọn đầu. Nón đực hình suốt chỉ hẹp thuôn về hai đầu, màu vàng, dài 25–60 cm, đường kính 5 – 10 cm. Vẩy nhị xốp mềm, không dày ở lưng, dài 1,6 – 3 cm, rộng 1,1 – 1,4 cm, phần hữu thụ (mang túi phấn) ở dưới, dài 1,4 – 2,8 cm, phần bất thụ (không mang túi phấn) ở trên, dài 2 – 4 mm. Vảy noãn dài 8 – 12 cm, có lông màu nâu, mang 2 – 4 noãn, nhẵn; phiến vẩy dài 4 – 6 cm, rộng 3 – 5,5 cm, mép xẻ sâu thành 14 – 24 thuỳ nhọn bên, xốp mềm, dài 25 – 40 mm, rộng 2 – 3 mm, thuỳ nhọn đỉnh giống như các thuỳ nhọn bên. Hạt hình trứng, dài 25 – 27 mm, rộng 20 mm; vỏ hạt vàng khi chín, không có sơ.
Đặc tính
Nón xuất hiện tháng 3 – 5, hạt chín khoảng tháng 10 – 12. Tái sinh từ hạt và nảy chồi bình thường. Cây trung sinh và ưa bóng, trên đất có tầng dày dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa, ở đất thấp cây lá rộng, nhưng có thể chịu hạn và lửa rừng, nơi có nhiều ánh sáng, đất bị thoái hoá và nghèo chất dinh dưỡng trong rừng hay trảng cây bụi rậm thường xanh thứ sinh phục hồi sau nương rẫy, đất sét nặng thoát nước, sản phẩm phong hoá của đá phiến sét, từ ven suối lên sườn đồi núi, ở độ cao khoảng 300 m.
Công dụng
Cây có dáng đẹp, trồng làm cảnh ở các công viên, biệt thự và đường phố, thân có thể dùng làm thuốc.
Tài liệu tham khảo
Sách đỏ Việt Nam – trang 396.